Bệnh suy thận mạn tính thường không gây ra triệu chứng gì trong những giai đoạn đầu của nó. Chỉ những xét nghiệm mới có thể phát hiện bất kỳ vấn đề gì đang phát triển. Bất cứ ai tăng nguy cơ bị bệnh suy thận mạn tính cần phải được kiểm tra thường xuyên về sự phát triển của căn bệnh này.

Nước tiểu, máu, và các xét nghiệm hình ảnh (chụp X-quang) được sử dụng để phát hiện bệnh thận, cũng như để theo dõi sự tiến bộ của căn bệnh.

Tất cả các xét nghiệm này đều có giới hạn. Chúng thường được sử dụng chung với nhau để cho ra một hình ảnh về tính chất và mức độ của bệnh thận.

Nói chung, tiến trình xét nghiệm này có thể được thực hiện trên cơ sở của bệnh nhân ngoại trú (bệnh nhân không phải nằm trong bệnh viện).

Các xét nghiệm nước tiểu

- Phân tích nước tiểu: Phân tích nước tiểu cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về chức năng thận. Bước đầu tiên trong xét nghiệm nước tiểu là làm một xét nghiệm dùng que thử nước tiểu.

Que thử nước tiểu có phản ứng hóa học để kiểm tra nước tiểu về sự hiện diện khác biệt của các thành phần bình thường và bất thường bao gồm cả protein. Sau đó, nước tiểu được khảo sát dưới kính hiển vi để tìm tế bào hồng cầu và bạch cầu, và sự hiện diện của các phôi và các tinh thể (chất rắn).

Chỉ số lượng tối thiểu của albumin (protein) hiện diện trong nước tiểu bình thường. Một kết quả dương tính trên que thử nước tiểu về protein là sự bất thường. Nhạy bén hơn que thử nước tiểu về protein là sự ước tính trong phòng xét nghiệm về chất albumin (protein) và chất creatinin trong nước tiểu. Tỷ lệ albumin (protein) và creatinin trong nước tiểu cung cấp một ước lượng tốt về chất albumin (protein) được bài tiết mỗi ngày.

- Xét nghiệm nước tiểu trong 24 giờ: Xét nghiệm này đòi hỏi bạn phải thu thập tất cả các nước tiểu của bạn trong 24 giờ liên tục. Nước tiểu có thể sẽ được phân tích về protein và chất thải (urê, nitơ, và creatinin).

Sự hiện diện của chất đạm trong nước tiểu cho thấy sự tổn thương thận. Số lượng creatinin và urê được bài tiết trong nước tiểu có thể được dùng để tính toán mức độ chức năng thận và tỷ lệ lọc cầu thận (GFR).

- Tỷ lệ lọc cầu thận: Tỷ lệ lọc cầu thận (GFR) là một giá trị trung bình tiêu chuẩn thể hiện chức năng chung của thận.

Khi bệnh thận phát triển, tỷ lệ lọc cầu thận giảm nhanh. Tỷ lệ lọc cầu thận bình thường là khoảng 100-140 ml/phút ở đàn ông và 85-115 ml/phút ở phụ nữ.

Nó giảm trong hầu hết những người có tuổi. Tỷ lệ lọc cầu thận có thể tính toán từ số lượng các sản phẩm chất thải trong nước tiểu 24 giờ hoặc bằng cách sử dụng các dấu hiệu đặc biệt qua tĩnh mạch. Bệnh nhân được chia thành 5 giai đoạn của bệnh thận mạn tính dựa trên tỷ lệ lọc cầu thận của họ.

Các xét nghiệm máu

- Creatinine và urê trong máu: Lượng nitơ urê trong máu (Blood urea nitrogen = BUN) và creatinine trong huyết thanh là những xét nghiệm máu thường sử dụng nhất để quan sát và theo dõi bệnh thận.

Mức độ các chất này tăng trong máu khi chức năng năng thận trở nên xấu đi.

- Ước tính tỷ lệ lọc cầu thận: Nhân viên phòng xét nghiệm hoặc bác sĩ của bạn có thể tính ra một số lượng ước đoán về tỷ lệ lọc cầu thận bằng cách sử dụng thông tin từ hoạt động máu của bạn.

Thật là quan trọng để thấy được một con số ước đoán về tỷ lệ lọc cầu thận của bạn và giai đoạn của bệnh thận mạn tính. Bác sĩ của bạn sẽ dựa vào giai đoạn bệnh thận của bạn để cho lời khuyên cần những xét nghiệm bổ sung nào và gợi ý về sự chăm sóc ra sao.

- Mức điện phân và sự cân bằng: Rối loạn chức năng thận gây ra sự mất cân bằng trong điện giải, đặc biệt là kali, phospho, và canxi. Kali máu cao (hyperkalemia) là một mối quan tâm đặc biệt. Sự cân bằng axít-bazơ trong máu thường cũng bị phá vỡ theo.

Sự giảm sản xuất về các dạng hoạt động của vitamin D có thể gây ra mức canxi máu thấp. Sự mất khả năng bài tiết/đào thải phospho do suy thận thường gây ra mức phospho máu tăng. Nồng độ hormone của tinh hoàn hay buồng trứng cũng có thể là bất thường.

- Đếm tế bào máu: Bởi vì bệnh thận gây gián đoạn sự sản xuất tế bào máu và rút ngắn vòng đời của các hồng cầu, đếm số lượng hồng cầu và hemoglobin có thể thấp (thiếu máu).

Một số bệnh nhân cũng có thể bị thiếu sắt do mất máu trong hệ tiêu hóa của họ. Những thiếu hụt dinh dưỡng khác cũng có thể làm giảm việc sản sinh tế bào hồng cầu.

Một số xét nghiệm khác

- Siêu âm: Siêu âm thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh thận. Siêu âm là 1 loại xét nghiệm không xâm lấn. Nói chung, thận bị thu nhỏ kích thước ở bệnh thận mạn tính, mặc dù thận có thể là bình thường hoặc thậm chí có kích thước lớn trong các trường hợp gây ra bởi người lớn mắc bệnh thận đa nang, thận tiểu đường, và thoái hóa protein dạng tinh bột. Siêu âm cũng có thể được dùng để chẩn đoán sự hiện diện của tắc nghẽn đường tiết niệu, sỏi thận và cũng để đánh giá lưu lượng máu vào thận.

- Sinh thiết: Một mẫu của mô thận (sinh thiết) đôi khi được yêu cầu trong trường hợp mà nguyên nhân gây ra các bệnh thận không rõ ràng. Thông thường, sinh thiết có thể được thu thập với sự gây tê tại chỗ để chỉ đưa kim qua da vào thận. Việc này thường được thực hiện như một tiến trình cho bệnh nhân ngoại trú, mặc dù một số cơ sở có thể yêu cầu bệnh nhân ở lại bệnh viện qua đêm.